Quan hệ đối ngoại Bách_Tế

Quan hệ với Trung Quốc

Sứ thần Bách Tế tại Trung Hoa

Năm 372, Cận Tiếu Cổ Vương (Geunchogo) đã nạp cống phẩm cho nhà Tấn, nằm ở đồng bằng Trường Giang. Sau khi nhà Tấn sụp đổ và Lưu Tống được thành lập vào năm 420, Bách Tế đã cử sứ thần sang tìm kiếm các mặt hàng văn hóa và công nghệ.

Bách Tế cũng đã cử sứ thần sang Bắc Ngụy lần đầu tiên vào năm 472, và Cái Lỗ Vương (Gaero) đã xin hỗ trợ quân sự để tấn công Cao Câu Ly. Bách Tế Vũ Ninh Vương|Vũ Ninh Vương]] (Muryeong) và Thánh Vương đã cử sử thần đến nhà Lương vài lần và nhận được tước hiệu quý tộc.

Lăn mộ của Vũ Ninh Vương được xây bằng gạch theo lối kiến trúc lăng mộ của nhà Lương.

Sự hiện diện của Bách Tế trên lục địa

Theo Tống thư, "Cao Câu Ly đã xâm chiếm và kiểm soát Liêu Đông (遼東), và Bách Tế kiểm soát Liêu Tây (遼西) (tại Đường Sơn, Hà Bắc hiện nay); vùng đất nằm dưới quyền quản lý của Bách Tế gọi là Jinpyeong (Jinping, Tấn Bình) quận, Jinpyeong (Jinping, Tấn Bình) huyện." Tấn thư trong Mộ Dung Hoàng ghi rằng liên minh của Cao Câu Ly, Bách Tế và một bộ lạc Tiên Ti đã tiến hành hoạt động quân sự. Tam quốc sử ký ghi rằng các trận đánh diễn ra trong thời trị vì của Mĩ Xuyên Vương (Micheon, 309-331) của Cao Câu Ly.

Theo Lương thư, vào thời nhà Tấn, Cao Câu Ly chinh phục Liêu Đông, và Bách Tế cũng chiếm đóng Liêu Tây và Tấn Bình, và lập nên quận của mình.

Tư trị thông giám, do Tư Mã Quang (1019–1086) thời nhà Tống biên soạn chủ yếu, ghi rằng vào năm 346, Bách Tế xâm lược Phù Dư Quốc, nằm tại Lộc Sơn, và kết quả là người dân của đất nước chạy loạn về phía tây để đến Yên. Đó là năm trị vì đầu tiên của Cận Tiếu Cổ Vương ở Bách Tế.

Tư liệu gần với ngày nay nhất là Nam Tề thư, cũng như Tư trị thông giám, ghi rằng một đội quân Bắc Ngụy (386-534) gồm 100.000 kị binh, đã tấn công Bách Tế song thất bại vào năm 488. Điều này được Tam quốc sử ký xác nhận là diễn ra trong 10 năm trị vì của Đông Thành Vương của Bách Tế (488). Dường như đội quân khi hành quân từ miền bắc Trung Quốc xuống góc đông nam của bán đảo Triều Tiên sẽ phải đi qua lãnh thổ của Cao Câu Ly, vốn cũng là một tình định và có thế lực lớn (dưới thời trị vị của Trường Thọ Vương của Cao Câu Ly (413-491)), tuy nhiên các cổ sử lại không đề cập đến điều này, do vậy, "Bách Tế" trong các biên niên sử này có thể đề cập đến sự hiện diện của Bách Tế ở phía bên kia của Cao Câu Ly, tức Liêu Tây.

Nam Tề thư cũng ghi rằng vào năm 495, Đông Thành Vương đã thỉnh cầu trao tước vị danh dự cho các vị tướng đã đẩy lui được cuộc tấn công của Bắc Ngụy. Tước vị này được triều đình Nam Tề phong theo tên các lãnh địa của họ và chúng có vẻ giống với tên một số khu vực ở Liêu Tây, như Quảng Lăng, Quảng Dương, Thanh Hà, Thành Dương.

Mục Cương vực trong Mãn Châu nguyên lưu khảo (满洲源流考) cũng tóm tắt về lãnh thổ Bách Tế, bao gồm một phần Liêu Tây:[2]

Biên giới Bách Tế phía tây bắc bắt đầu từ Quảng Ninh và Cẩm Nghĩa ngày nay, và phía nam qua eo biển thẳng phía đông đến các vùng Hwanghae, Chungcheong, Jeolla.. của nhà Triều Tiên khi đó. Từ đông sang tây, lãnh thổ Bách Tế hẹp; chạy từ bắc xuống nam thì dài. Nếu nhìn lãnh thổ Bách Tế từ khu vực Liễu ThànhBắc Bình, Tân La nằm tại đông nam Bách Tế, nhưng nếu nhìn từ khu vực GyeongsangUngjin của Bách Tế, Tân La nằm ở đông bắc.

Quan hệ với Nhật Bản

Bách Tế tặng gươm 7 răng cưa cho Yamato.

Để đương đầu với sức ép quân sự từ Cao Câu Ly ở phía bắc và Tân La ở phía đông, Bách Tế (Kudara trong tiếng Nhật) đã thiết lập mối quan hệ gần gũi với Nhật Bản. Theo biên niên sử Triều Tiên Tam quốc sử ký, Bách Tế và Tân La đã gửi một vài hoàng tử sang triều đình Nhật Bản để làm con tin.[3] Tuy vậy, việc đưa các hoàng tử sang Nhật cũng có thể hiểu là một hoạt động ngoại giao.[4]

Với lịch sử lâu dài cùng các tư liệu không thống nhất, rất ít kết luận có thể được đưa ra về mối quan hệ giữa Bách Tế và Nhật Bản. Việc nghiên cứu sâu hơn gặp phải khó khăn, một phần là do việc hạn chế nghiên cứu các lăng mộ hoàng gia tại Nhật Bản từ năm 1976. Trước 1976, các nhà nghiên cứu nước ngoài có thể tiếp cận, và một số đã tìm thấy các đồ vật khảo cổ Triều Tiên trong các điểm khai quật tại Nhật Bản. Gần đây vào năm 2008, Nhật Bản đã cho phép một sự tiếp cận có giới hạn đối với các nhà khảo cổ nước ngoài, song cộng đồng quốc tế vẫn còn nhiều câu hỏi chưa được trả lời. National Geographic viết rằng việc Nhật Bản "giữ việc tiếp cận các lăng mộ bị hạn chế, đang thúc đẩy các tin đồn rằng nhà chức trách khiếp sợ việc khai quật có thể khám phá ra liên hệ về mặt huyết thống giữa hoàng tộc "thuần chủng" và người Triều Tiên"[5]

Trong bất kỳ trường hợp nào, thì người Triều Tiên cũng đã góp phần truyền bá vào Nhật Bản các hiểu biết về hệ thống Hán tự, Phật giáo và kỹ thuật chế tạo vũ khí bằng sắt, cùng các công nghệ khác.[6][7] Đổi lại, Nhật Bản cung cấp sự ủng hộ về mặt quân sự.[8]

Tam quốc sử kýTam quốc di sự ghi rằng một số hậu duệ của hoàng tộc Bách Tế và một số quý tộc đã nắm giữ các quyền cao chức trọng trong triều đình Nhật Bản, duy trì ảnh hưởng Triều Tiên và bảo đảm sự tiếp tục của liên minh giữa Bách Tế và Yamato, như vào thời Thiên hoàng Yōmei (Dụng Minh), khi ngôi chùa Horyuji (Pháp Long tự) được xây dựng. Sử sách cũng ghi rằng Bách Tế Vũ Ninh Vương, vị vua thứ 25 của Bách Tế, được sinh ra tại Nhật Bản.

Gương thần xã Suda Hachiman trông giống một chiếc gương Bách Tế

Một số thành viên quý tộc và hoàng tộc Bách Tế đã di cư sang Nhật Bản ngay cả trước khi vương quốc sụp đổ. Để đáp lại lới thỉnh cầu của Bách Tế, năm 663, Nhật Bản đã cử tướng Abe no Hirafu cùng 20.000 lính và 1.000 thuyền sang Triều Tiên để phục quốc giúp Bách Tế, di cùng là hoàng tử Phù Dư Phong (Buyeo Pung) (trong Hán-Hòa đọc là Hōshō), con trai của Nghĩa Từ Vương (Uija) và là một sứ thần được cử đến Nhật Bản. Khoảng tháng 8 năm 661, 10.000 lính cùng 170 tàu thuyền do Abe no Hirafu dẫ đầu đã đến nơi. Sau đó, quân tiếp viện của Nhật Bản bao gồm 27.000 lính do Kamitsukeno no Kimi Wakako chủi huy và 10.000 lính do Iohara no Kimi chỉ huye cũng đã đến Bách Tế vào năm 662.

Tuy nhiên đội quân này đã thất bại trong trận Baekgang, còn hoàng tử Phù Dư Phong thì trốn thoát sang Cao Câu Ly. Theo Nihon Shoki (Nhật Bản thư kỷ), Nhật Bản đã mất 400 tàu trong các trận đánh.Chỉ một nửa số binh lính có thể trở về đến Nhật Bản.

Đội quân này rút về Nhật Bản cùng với nhiều người tị nạn Bách Tế. Các thành viên hoàng gia ban đầu được đối đãi như "phiến khách" (蕃客, nghĩa là khách ngoại quốc) và không được tích hợp vào hệ thống chính trị Nhật Bản trong một thời gian. Em trai của Phù Dư Phong là Thiện Quang (Sun-gwang) (Zenkō trong tiếng Nhật) (善光 hay 禅広) đã dùng họ Kudara no Konikishi ("Bách Tế Vương") (百濟王) (họ cũng được gọi là gia tộc Kudara, cũng như Bách Tế được gội là Kudara trong tiếng Nhật). Mẫu thân của Thiên hoàng Kammu (Hoàn Vũ, 737-806) là Takano no Niigasa, một hậu duệ của Bách Tế Vũ Ninh Vương. Thiên hoàng Kammu đối đãi với gia tộc Kudara no Konikishi như là "thân gia" của mình. Hoàng tộc Bách Tế cũng là tổ tiên của gia tộc Ouchi, gia tộc Sue, gia tộc Soga[9] và các gia tộc khác.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bách_Tế http://books.google.com/books?visbn=0521223520&id=... http://www.japan-guide.com/e/e2046.html http://www.japanvisitor.com/index.php?cID=359&pID=... http://encarta.msn.com/encyclopedia_761568150_4/Po... http://news.nationalgeographic.com/news/2008/04/08... http://theseoultimes.com/ST/?url=/ST/db/read.php?i... http://kr.news.yahoo.com/service/news/shellview.ht... http://www.koreandb.net/Sam/bon/samkuk/04_250_2001... http://www.asiasocietymuseum.org/buddhist_trade/ko... https://www.webcitation.org/5kwPni5fJ?url=http://e...